Learn to build a world where everyone belongs. Take free classes at OBI University.   Start Now

Vietnamese people conversing

VÀO NHỮNG CUỐI NĂM 1970 VÀ 1980, những người Việt di cư đã thành lập một “spatial community” (“Không gian cộng đồng”) dày đặc bao gồm các nhà và cơ sở kinh doanh trên khắp các thành phố Garden Grove, Westminster và Santa Ana, California, làm tái hiện bộ mặt của trung tâm của Quận Cam.1 Ngày nay, cộng đồng người Việt trong một số cách thức đang đổi mới. Nhiều thành viên - trẻ và các vị cao niên - nói về cộng đồng chúng ta như đang trong quá trình chuyển đổi, với (các) điểm đến chưa được xác định, nhưng được hình thành hàng ngày thông qua hàng triệu lựa chọn và những hành động nhỏ của người dân.

Cộng đồng đang trở thành ai và cái gì cũng có thể thách thức những kỳ vọng. Những nghiên cứu được báo cáo trong văn bản này cho thấy rằng những thành viên của cộng đồng đã và đang trải qua những thách thức một số sự suy nghĩ và giả định thông thường về người Mỹ gốc Việt. Trong số những điều khác, chúng tôi cho thấy rằng những người sống ở Quận Cam đều đánh giá cao và đầu tư vào sự gắn kết của một cộng đồng người Việt khác biệt, và cũng mong muốn các đồng bào có cơ hội để tạo ra những mối quan hệ có ý nghĩa hơn giữa những sắc tộc-chủng tộc.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng hầu hết người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam đều hình dung ra những vai trò tích cực cho chính phủ trong việc đảm bảo phúc lợi của cộng đồng, cải thiện điều kiện vật chất của người dân và giải quyết những tình trạng bất bình đẳng trong cộng đồng. Chúng tôi nhận thấy những giá trị cơ bản cho thấy rằng cộng đồng Việt Nam có thể trở thành một tiềm năng lớn trong việc thúc đẩy công bằng về kinh tế, sức khỏe và chủng tộc ở một mức độ lớn hơn những gì đã được thực hiện cho đến nay. Chúng tôi kết thúc văn bản này với một bản tóm tắt về những tác động đối với những nỗ lực cộng đồng và thi hành công dân đã có tác động đến cộng đồng người Việt Nam tại Quận Cam.

Tiểu Sử Và Phương Pháp Nghiên Cứu

Không nơi nào khác ngoài Việt Nam có sự phỏng vấn đông đúc của người Việt như ở Quận Cam. Mặc dù những người đến từ Việt Nam năm 1975 “với tư cách là những người tị nạn được nhà nước bảo trợ, có thể là nhóm được nghiên cứu nhiều nhất trong lịch sử nhập cư của Hoa Kỳ,” Giáo Sư Yến Lê Espiritu chỉ ra rằng nghiên cứu về họ từ lâu đã bỏ qua tiếng nói của chính người Việt. Thay vào đó, những sự nghiên cứu đó thường quan tâm về nhóm dân đó là “một vấn đề cần được giải quyết.”2 Trong vòng thập kỷ rưỡi qua đã chứng kiến ​​một nhóm dữ liệu nghiên cứu mới xuất hiện - chủ yếu là của các học giả người Mỹ gốc Việt - đã tạo ra một bước đột phá với công trình nghiên cứu trước đó, họ nghiên cứu với hành trình khám phá một cách cẩn thận và sâu sắc về lịch sử đời, danh tính và tính khả quan của người Mỹ gốc Việt. Tuy nhiên, chúng tôi phần lớn vẫn chưa hiểu rõ về quan điểm và ý kiến ​​của cộng đồng người Mỹ gốc Việt về chính phủ, đời sống công dân, bất bình đẳng về chủng tộc và kinh tế, v.v. – và điều này khiến các phương tiện truyền thông và các cơ quan chính trị dựa trên những phản ứng của họ đối với người Mỹ gốc Việt dựa trên những khái quát chung, thậm chí những sự rập khuôn.

Nghiên cứu này được đồng thiết kế và thực hiện bởi Viện Othering and Belonging Institute và VietRISE để tìm hiểu sâu sắc hơn cộng đồng người Việt Nam tại Quận Cam. VietRISE là một tổ chức phi lợi nhuận ở thành phố Garden Grove, CA. Chúng tôi nghiên cứu bằng cách lắng nghe những tiếng  nói thường bị bỏ qua, để nói về những vấn đề mà họ hiếm khi được hỏi. Là một phần của dự án Blueprint for Belonging,3 nghiên cứu của chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc tìm hiểu cách người Mỹ gốc Việt đang suy nghĩ gì về: mối quan hệ trong và giữa các cộng đồng qua các ranh giới khác biệt; vai trò của chính phủ trong xã hội, và sự tin tưởng vào chính phủ cũng như các thể chế khác; và các sự lựa chọn về việc và làm thế nào để tạo nên những sự tham gia tích cực, về mặt cá nhân hay tập thể, trong đời sống công dân và chính trị của họ.

Phương tiện chính của chúng tôi để điều tra những vấn đề này là các nhóm phỏng vấn (focus group). Các nhóm phỏng vấn là một phương pháp mạnh mẽ để kiểm tra các ý tưởng và tường thuật lưu hành trong các cử tri hoặc cộng đồng, và để vượt ra ngoài những gì mọi người nghĩ để hiểu tại sao và cách họ nghĩ như thế nào. Không giống như các cuộc khảo sát ý kiến khác, các nhóm phỏng vấn được tổ chức xung quanh các câu hỏi không giới hạn để cho người tham gia có nơi để bắt đầu cuộc trò chuyện, nơi mà các quan điểm và kết nối của chính họ dẫn dắt họ đến . Thật vậy, những nơi họ “đi đến” với các câu trả lời của họ  là một phần dữ liệu rất có giá trị cho việc nghiên cứu4 Các nhóm phỏng vấn phỏng vấn bao gồm những người có đặc điểm chung cho phép những người tham gia, thông qua trao đổi, tập thể hình thành bức tranh về cách suy nghĩ hiện tại và các thuật ngữ của tranh luận giữa "những người như chúng tôi." Nếu những tương tác này đôi khi thể hiện quá mức “mong muốn của xã hội” hoặc “các quy tắc chuẩn mực”,5 thì điều này cũng có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị. Đầu tiên, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những chi tiết "trọng tâm" trong những gì được xã hội đánh giá cao hoặc xác nhận trong các cử tri được đề cập. Và thứ hai, nó thường khơi khích cuộc trò chuyện về thực tế là các quan điểm nhất định đang chiếm ưu thế, dẫn đến việc suy ngẫm về cách những quan điểm đó có thể bị phức tạp hóa, tranh chấp hoặc tinh chỉnh của cộng đồng Người Mỹ gốc Việt.6

Từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 4 năm 2021, Viện Blueprint for Belonging và tổ chức VietRISE đã phối hợp với nhau để thiết lập kế hoạch và tiến hành bốn nhóm phỏng vấn với một số cư dân Việt Nam ở Quận Cam.7 Những người tham gia được chọn từ một trong số những người nói tiếng Việt8 và hầu hết 8 người từ 40-70 tuổi không có theo một đảng phái nào mạnh mẽ (sau đây gọi là “không đảng phái”).9 Mỗi nhóm trong số bốn nhóm phỏng vấn của chúng tôi bao gồm 4-6 người tham gia, họ gặp nhau qua Zoom để có các cuộc trò chuyện được kéo dài 100-120 phút mỗi nhóm. Các nhóm được hỗ trợ bởi một thành viên cộng đồng trẻ của cộng đồng Việt Nam.

Focus group

Sự lựa chọn phỏng vấn vào những người không theo đảng phái nói tiếng Việt đáp ứng các vấn đề thiếu hiểu biết cũng như các mục tiêu học tập do tổ chức VietRISE xác định. Thứ nhất, bất chấp số lượng của họ, tiếng nói của các cử tri này thường bị bỏ sót những đặc điểm của họ và quan điểm và cũng như là những ưu tiên của cộng đồng Việt Nam. Ví dụ, trên các phương tiện truyền thông miêu tả về sự phân chia đảng phái thường bỏ qua rằng hơn một phần ba cử tri người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam được ghi danh là “không có đảng phái nào”. Tiếp theo, tổ chức VietRISE là một phần của phong trào gồm các nhà lãnh đạo cộng đồng thế hệ thứ 1.5 và thế hệ thứ hai đang phối hợp tổ chức và xây dựng cầu nối giữa các cư dân Việt Nam ở trong Quận Cam trẻ và cao niên. Trong khi một số báo cáo gần đây nói về “sự phân chia thế hệ” trong cộng đồng Việt Nam, những nỗ lực này ưu tiên tạo nơi cho các nhà lãnh đạo trẻ lắng nghe và hiểu quan điểm của các thành viên lớn tuổi trong cộng đồng. Nghiên cứu được báo cáo trong văn bản này được thiết kế bởi các nhà tổ chức cộng đồng và các nhà nghiên cứu để trở thành sự tiếp nối và đào sâu của công việc đó. Chúng tôi tin rằng sự tin tưởng và thiện chí mà những người tổ chức trẻ có được thông qua công việc dựa vào cộng đồng của họ là những nền tảng quan trọng để tạo ra sự tham gia một cách cởi mở và thẳng thắn hơn của những người cao tuổi trong các nhóm phỏng vấn.

Văn bản này sẽ thảo luận về một số mô hình nổi bật và các chủ đề được lặp lại trong những gì những người tham gia nhóm phỏng vấn nói về cộng đồng của họ, mối quan hệ của cộng đồng với những người khác, vai trò của chính phủ và sự tham gia của người dân.10 Chúng tôi phân tích những phát hiện này để biết cách người tham gia tiết lộ vô số bản thân, “chúng ta” và “chúng,” những cơ quan và các giá trị đang lưu hành trong các cử tri mà chúng tôi đã nghiên cứu. Đối với một số chủ đề, văn bản liên kết các phát hiện của nhóm phỏng vấn với dữ liệu thậm chí rộng hơn về quan điểm của cư dân Việt Nam tại Quận Cam, thông qua việc tham khảo một số kế hoạch chi tiết cho toàn quận vào năm 2020 của Viện Blueprint for Belonging. Cuộc khảo sát này với hơn 1.500 cư dân Quận Cam đã sử dụng các phương thức lấy mẫu nhóm người để đảm bảo các ví dụ phụ đáng tin cậy về mặt thống kê về những người thuộc các dân tộc-chủng tộc khác nhau.11 Trong số những người hoàn thành cuộc khảo sát có 429 người Mỹ gốc Á, trong đó gần một nửa được xác định là người Việt Nam. Nếu có liên quan, chúng tôi đưa các điểm dữ liệu về ý kiến ​​của người trả lời là người Việt Nam vào phân tích dữ liệu của nhóm phỏng vấn.12 Chúng tôi kết luận bằng một bản tổng hợp tất cả những dữ liệu này cho chúng tôi biết về cách chuyển đổi quan điểm của người Việt Nam tại Quận Cam và khát vọng của họ vào việc tham gia vào các hoạt động công dân và chính trị hướng tới nhiều hơn ve62b sự công bằng và thuộc về California.

“Cộng đồng Việt Nam” là gì?

Những cư dân cao tuổi gốc Việt của Quận Cam đang suy ngẫm sâu sắc về sự chuyển giao thế hệ, tương lai của cộng đồng của họ, và những cách mà nó sẽ cân bằng giữa sự liên tục và sự thay đổi. Đây là một đồng nhất mạnh mẽ xuất hiện từ lời nhắc mở đầu của các nhóm phỏng vấn, nhóm này yêu cầu những người tham gia xác định hoặc giải thích thuật ngữ mà cộng đồng Việt Nam dùng để xem thuật ngữ này có nghĩa là gì đối với họ. Một lời câu hỏi không giới hạn mở như vậy có thể dẫn đến một số khuynh hướng. Thông thường, đối với các thành viên của các cộng đồng có nguồn gốc nhập cư, nó mang lại sự trao đổi về văn hóa, ngôn ngữ, sự chia vui và những sự đấu tranh với những sự mất mát và phân biệt đối xử. Mặc dù hầu hết những câu trả lời này được đề cập, nhưng những người tham gia nghiên cứu người Mỹ gốc Việt đã trình bày một cách khéo léo các ý tưởng về cộng đồng của họ được tổ chức xung quanh những câu chuyện về “nơi chúng ta đến từ đâu” và “nơi chúng ta hướng đến sẽ là gì”.

Nói chung, những câu chuyện đó được cấu trúc như những câu chuyện kể về những tiến trình của họ. Họ kể về một cộng đồng bắt nguồn từ cuộc di cư năm 1975 khỏi Việt Nam - dần dần nhưng nhất quán – cộng đồng Việt Nam đã phát triển hơn về quy mô, thành công về kinh tế, sự chấp nhận và thậm chí ảnh hưởng cả chính trị. Cách thuật lại “chúng tôi là ai” này thường kết thúc bằng việc cho những người cao tuổi Việt Nam khẳng định niềm tự hào, hạnh phúc và lạc quan về cộng đồng của họ trong cuộc trò chuyện. Câu chuyện của họ cũng chứng tỏ rằng họ xác định mạnh mẽ ý tưởng về một “cộng đồng Việt Nam” như một tập thể gắn kết lại, và nổi bật.

Sự xác định này tương ứng với một sự đầu tư mạnh mẽ về mặt cảm xúc vào tương lai của cộng đồng — về những gì nó sẽ trở thành. Trong số các thành phần cử tri là trọng tâm của nghiên cứu này, đã có nhiều nhận định rằng trong tương lai đó phần lớn sẽ không nằm trong tay của họ. Nhiều người cho rằng họ giống như đang ở trên đỉnh của một sự chuyển đổi mang tính thời đại trong vai trò lãnh đạo của cộng đồng Việt Nam - một sự chuyển đổi được thể hiện là không thể tránh khỏi và một số người nhấn mạnh những điều trên là đáng hoan nghênh. Nghiên cứu nhận thức sâu sắc của quần chúng về sự thay đổi thế hệ trong cộng đồng của họ và mức độ chấp nhận chung của họ về nó, là sự duy nhất trong số các nghiên cứu tìm kiếm lại của Viện Blueprint for Belonging.

Tuy nhiên, sự đồng nhất mạnh mẽ và sâu sắc mà những người lớn tuổi Việt Nam cảm nhận được với cộng đồng của họ có nghĩa là “thế hệ tiếp theo” - những người trẻ của ngày hôm nay - và những lựa chọn họ đưa ra là những điểm đáng quan tâm và được tranh luận. Các thành viên trong nhóm phỏng vấn của chúng tôi đã nói rất lâu về những gì họ mong muốn cho thế hệ tiếp theo này — đặc biệt là những gì họ nên tiếp tục và những gì họ nên “để lại phía sau” – điều trên đã định hình tương lai của cộng đồng Việt Nam. Không nói riêng, những cuộc thảo luận này chủ yếu phỏng vấn vào lịch sử người tị nạn của cộng đồng, cũng như những cuộc đấu tranh và hy sinh của các thành viên đặc biệt từ bỏ nước ra đi do bạo lực chính trị, sẽ được ghi nhớ và tôn vinh như thế nào.

Có sự đồng thuận chung rằng nguồn gốc của cộng đồng từ năm 1975 và tất cả những gì mà các thành viên của họ đã đến, vẫn nên là một nguồn tự hào, và không nên bị lãng quên. Nhưng những người tham gia nghiên cứu đã phải vật lộn với những gì “ghi nhớ” cần đòi hỏi. Một câu hỏi được đặt ra giữa các nhóm là ở đó sự hiểu biết của thế hệ cũ về lịch sử của họ như một cuộc đấu tranh chống cộng sản đặc biệt phù hợp với bản sắc của cộng đồng Việt Nam trong tương lai. Nhiều người lưu ý rằng việc sụt giảm tỷ lệ trong cộng đồng đang phát triển của họ có lịch sử này, và lo lắng rằng vị trí trung tâm đối với bản sắc người Mỹ gốc Việt sẽ dẫn đến sự lấn lướt và loại trừ — đặc biệt là đối với những người mới đến và người Việt Nam hiện đang sinh sống ở Việt Nam. Một trong những lời chỉ trích mạnh mẽ hơn về cái mà bà gọi là “tư duy lỗi thời”, một phụ nữ 55 tuổi từ Westminster nói, “Giúp đỡ người Việt Nam tại Việt Nam hay giúp đỡ người Việt Nam ở nước ngoài đều giống nhau… Chúng tôi cần những gương mặt mới hơn, trẻ trung hơn để đại diện cho cộng đồng Việt Nam. Có thật! Tất cả những hận thù, tất cả những mối hận thù— [chúng ta] đã thuộc về quá khứ. ”

Những người khác tự hỏi liệu rằng những kỳ vọng này của những người Mỹ gốc Việt trẻ tuổi tiếp thu lịch sử của những người lớn tuổi của họ có thể vô tình đẩy họ ra xa hay không. Hai người đàn ông ngoài 50 tuổi đến từ Garden Grove và Santa Ana đồng ý rằng họ không biết những người trẻ tuổi đang nghĩ như thế nào về cộng đồng người Việt và đặt trong đó. “Chúng tôi thực sự không biết suy nghĩ của giới trẻ bây giờ như thế nào ... Họ nghĩ rằng họ có thể hòa nhập với cộng đồng Việt Nam, hay [họ nghĩ], 'Ồ, cộng đồng người Việt thật phiền phức'? ” Cùng với một cư dân Garden Grove 70 tuổi, ông suy đoán về việc liệu những người Mỹ gốc Việt sinh ra ở Hoa Kỳ có thể tách mình ra khỏi cộng đồng hay không. Những người đàn ông đồng ý rằng điều quan trọng nhất là giữ cho họ “gần gũi” và sự hòa hợp giữa các thế hệ quan trọng hơn việc để những người trẻ tuổi biết mọi thứ về câu chuyện của gia đình họ, nếu những câu chuyện đó mang những “gánh nặng” họ và mối quan hệ của họ với cộng đồng.

Cuối cùng, sự hòa hợp đó là đảm bảo rằng cộng đồng Việt Nam tồn tại như một tập thể rất là có ý nghĩa, trong đó các thành viên tìm thấy sự hỗ trợ và sức mạnh, và một cộng đồng được những người khác tôn trọng. Trong một trích dẫn phản ánh các cuộc trò chuyện giữa tất cả các nhóm phỏng vấn của chúng tôi, một cư dân Garden Grove 42 tuổi nói, "Hy vọng rằng ... các thế hệ tương lai của chúng ta sẽ học hỏi và lưu giữ những khía cạnh tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, và cải thiện những điều chưa tốt của các khía cạnh khác để khi các cộng đồng khác nhìn vào chúng ta là người Việt Nam, sự tin tưởng của họ sẽ tăng lên.”

Sự Khác Biệt và Chia Rẽ Trong Cộng Đồng

Những người tham gia nhóm phỏng vấn sau đó được yêu cầu thảo luận về bất kỳ sự chia rẽ nào trong cộng đồng Việt Nam, và liệu có sự khác biệt đáng kể về mặt xã hội hay “phân nhóm” dựa trên bản sắc hoặc tư tưởng. Phát hiện nổi bật nhất từ ​​các cuộc thảo luận này là sự thận trọng của thành viên tham gia đối với câu hỏi. Nhìn chung, những người tham gia nghiên cứu không háo hức trả lời và một số ít thách thức về chủ đề nêu ra. Ví dụ, một phụ nữ 66 tuổi từ Westminster trả lời, “Người Việt Nam không có nhóm chính/nhóm lớn hay nhóm phụ/nhóm nhỏ. Mọi người đều giống nhau. Vì vậy, tôi không hiểu ai đã nghĩ [điều đó]… Ai đã nghĩ ra khái niệm đó? ”

“Hỏi câu này, tôi nghĩ là hơi nhạy cảm, vì trước đây, một số người đến [khoảng] 1975 thường coi thường những người vừa đến. Về phương diện địa lý, người Việt Nam thường không hòa đồng trong công việc, đôi khi sự khác biệt về vùng miền và / hoặc sự khác biệt trong cách cư xử khiến tôi cảm thấy chúng tôi thiếu hòa hợp…. Câu hỏi này nhạy cảm quá Minh ơi! ”

MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG VIỆT NAM, 52 tuổi, Westminster

Những câu trả lời này và những câu trả lời khác càng cho thấy giá trị cao mà các cử tri này đặt ra đối với sự đoàn kết của cộng đồng. Sự đoàn kết là một lý tưởng thường xuyên được nhắc đến trong cộng đồng Việt Nam, ngay cả khi thường được bày tỏ nguyện vọng, hoặc dưới hình thức nào đó, và tiếc rằng người Việt Nam đã không đoàn kết hơn, đặc biệt là khi bỏ phiếu. Nhưng các người tham gia nhất trí rằng chính nhờ sự đoàn kết mà cộng đồng Việt Nam mới đạt được sự tôn trọng, ảnh hưởng và sức mạnh. Khi đó, khi nói về những ranh giới phân chia trong nội bộ của cộng đồng hoặc những sự bất hòa, họ khó chịu khi có những mâu thuẫn với ý tưởng của những người tham gia về cộng đồng của họ là gì hoặc họ muốn cộng đồng chúng ta trở thành gì.13

Trong khi đó, có một sự khác biệt rõ ràng giữa những người tham gia: đó là giữa những người có gia đình rời Việt Nam vào hoặc khoảng năm 1975 và những người đến Hoa Kỳ gần đây hơn. Thường thì những nhóm này được phân biệt là người tị nạn (hay “người tị nạn thoát khỏi chế độ cộng sản”) so với người di cư kinh tế và / hoặc sinh viên du học, tương ứng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của đường phân chia đó đang được xem xét kỹ lưỡng và thay đổi. Mặc dù đã có lúc nhóm trước đây được nhiều người coi là “hợp pháp” hoặc “đáng” hơn để đến Hoa Kỳ, những kiểu đánh giá giá trị này hiếm khi (hai lần) được thể hiện trong các nhóm phỏng vấn của chúng tôi. Thông thường hơn là những người tham gia đưa ra vấn đề để gọi nó là một vấn đề không tốt. Nói cách khác, ý kiến ​​chủ đạo lâu nay rằng có sự khác biệt về đạo đức giữa những người tị nạn Việt Nam những năm 1970 và những người đến sau này là một trong những ý kiến ​​mà ngay cả những thành viên thuộc thế hệ người Mỹ gốc Việt lớn tuổi cũng đang tích cực tranh luận, với một số ý kiến ​​cho rằng nó không còn phù hợp nữa và tốt nhất là nên để lại quá khứ.

Cuối cùng, những nhóm người Mỹ gốc Việt không đảng phái coi đảng phái như là một ranh giới phân chia chính trong cộng đồng của họ. Theo quan điểm của họ, đảng phái không chỉ là một biểu hiện của các quan điểm khác nhau mà trở thành một sự rạn nứt xã hội sâu sắc hơn. Họ nhận thấy điều này bất lợi và một lý do để họ tránh hoạt động chính trị một cách công khai, như chúng ta sẽ khám phá sau trong văn bản này.

Người Mỹ gốc Việt và những Người Chủng Tộc Khác

Khi các cuộc trò chuyện trong nhóm phỏng vấn chuyển từ động lực nội bộ sang động lực giữa các nhóm, những người tham gia đã nói rõ rằng họ hạn chế tiếp xúc với những người bên ngoài cộng đồng Việt Nam. Ở những người hàng xóm của họ, tại nhiều văn phòng và cơ quan dịch vụ, và những nơi khác trong cuộc sống hàng ngày của họ, những người tham gia hầu như chỉ tương tác với những người Việt Nam khác. Điều này khiến họ gặp khó khăn khi nói chuyện với các câu hỏi về cách họ nhìn nhận mối quan hệ hoặc điểm chung của cộng đồng của họ, chẳng hạn như các cộng đồng có nguồn gốc nhập cư khác.

“Thành thật mà nói, đó là do cộng đồng Việt Nam quá đông (đông quá)! Khi tôi đi ra ngoài, tôi nhìn thấy những người Việt Nam hàng ngày. Vì vậy, chúng tôi không có nhiều cơ hội tương tác với các cộng đồng khác. Chỉ ở nơi làm việc, nhưng những gì tôi nhìn thấy ở nơi làm việc không cho tôi thấy nhiều điều về cộng đồng khác. "


MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG VIỆT NAM, 52 tuổi , Garden Grove

Tuy nhiên, một số người bày tỏ quan điểm rằng quan mối quan hệ hợp tác cũng tạo ra một số những rào cản cho các nhóm này kết hợp với nhau trên các tuyến quốc gia để giải quyết các vấn đề chung. Nhiều người tham gia nghiên cứu cho biết người Mỹ gốc Việt chủ yếu là đảng viên Cộng hòa, hoặc họ bị các cộng đồng có nguồn gốc quốc gia khác làm rập khuôn như vậy. Sau đó, họ thể hiện định ý kiến ​​của riêng mình, nói rằng người Mexico, Campuchia và Philippines, chẳng hạn, tất cả đều ủng hộ Đảng Dân chủ, và những sự khác biệt này tạo ra căng thẳng. Ở đây, một lần nữa, chủ nghĩa đảng phái lại hình thành rất lớn trong tâm trí của những người nói tiếng Việt không đảng phái khi đóng một vai trò gây chia rẽ trên diện rộng.

Tuy nhiên, những người nói tiếng Việt không theo đảng phái vẫn mong muốn cộng đồng của họ có trải nghiệm tương tác giữa các nhóm nhiều hơn và lạc quan rằng kết quả sẽ khả quan. Bên cạnh quan hệ đảng phái, họ coi sự ngờ vực là xuất phát từ sự thiếu quen thuộc đơn giản - mọi người không thoải mái với những điều chưa biết. Họ mong đợi rằng các tương tác trực tiếp, có ý nghĩa, trong đó các thành viên có tính cách thực sự của một thành viên khác sẽ mang lại lợi ích cho tất cả những người tham gia. Thật không may, không có người tham gia nhóm phỏng vấn nào nhớ lại kinh nghiệm của một cuộc gặp gỡ như vậy - dù là tự nhiên hay có kế hoạch - như một hình thức để rút ra.

Nhận Thức về Phân Biệt Chủng Tộc, Không Mang Tính Cấu Trúc

Mặc dù một số tương tác của họ với những người không phải là người Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhưng thành phần người Mỹ gốc Việt này rất ý thức về sự hiện diện của phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử trong xã hội Hoa Kỳ, bao gồm cả chống lại người Việt. Những người tham gia nghiên cứu đã đề cập đến những định kiến ​​không phù hợp, trải nghiệm bị đối xử bất công và tất nhiên, sự gia tăng về tội ác thù hận chống người châu Á giai đoạn 2020-2021. Nhưng điều đáng chú ý là những người nói tiếng Việt này đã dễ dàng chỉ ra rằng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Hoa Kỳ đã ảnh hưởng gay gắt hơn đến những người thuộc các sắc tộc-chủng tộc khác. Trong cả hai nhóm phụ nữ, những người tham gia đồng ý rằng người Mỹ da đen phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bất công tồi tệ hơn những người Mỹ gốc Á. Trong việc kết nối các cuộc tấn công lâu dài và nhiều cuộc tấn công vào cuộc sống của người da đen với những cuộc tấn công gần đây hơn vào cuộc sống của người Châu Á, họ đã có những gợi ý về cơ hội xây dựng tình đoàn kết giữa những người nói tiếng Việt và người Mỹ da đen.

“[Nhưng] nếu so sánh cộng đồng người Việt với cộng đồng Da đen, thì cộng đồng người Việt không phải chịu những rắc rối giống như cộng đồng Da đen.”


MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM, 40 tuổi  Garden Grove

Đồng thời, những cách mà những người tham gia nghiên cứu Việt Nam thảo luận về phân biệt chủng tộc — và loại vấn đề mà họ phải đối mặt — thiếu sự hiểu biết về cấu trúc hoặc hệ thống (structural or systemic). Họ tập trung vào sự phân biệt đối xử như một hiện tượng cá nhân, và một hiện tượng bắt nguồn chủ yếu từ sự thiếu hiểu biết, không quen thuộc và sợ hãi. Cuộc nói chuyện về cách phân biệt chủng tộc phục vụ những lợi ích cụ thể, hoặc có thể được sử dụng một cách có chiến lược, đều hoàn toàn không có.

Quan điểm rút gọn về vấn đề này rõ ràng đã hạn chế cách người tham gia suy nghĩ về “giải pháp” cho phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ. Những nội dung được đề xuất tập trung hoàn toàn vào giáo dục và liên hệ giữa các nhóm, bao gồm cả nơi những người tham gia cho rằng chính phủ nên đóng một vai trò. Theo một phụ nữ 52 tuổi đến từ Westminster,

“Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ngày càng gia tăng và chính phủ đã không làm đủ việc để ngăn chặn nó… [Vì vậy,] Khi được hỏi chính phủ không thể làm gì, đó là [điều này:] mở các lớp học để giáo dục mọi người về chủng tộc để mọi người có thể học và hiểu các chủng tộc khác tốt hơn và chúng ta phải tôn trọng lẫn nhau.”

Nói chung, việc tiếp xúc với thông tin mới và tương tác giữa các dòng khác biệt đã được thảo luận như một liều thuốc giải độc cơ bản cho những nạn phân biệt chủng tộc.14

Việc không thừa nhận vai trò của các lực lượng có cấu trúc (structural forces) đối với sự bất bình đẳng chủng tộc cũng thể hiện rộng rãi trong các kết quả khảo sát năm 2020 của chúng tôi. Cuộc khảo sát của viện Blueprint for Belonging đã hỏi hai loạt câu hỏi được thiết kế để đánh giá xem liệu những người trả lời khảo sát có hiểu kết quả kinh tế không đồng đều đối với người Mỹ da đen và người nhập cư (tương ứng) do nhiều yếu tố cá nhân hơn là lịch sử và cấu trúc.15 Trong hầu hết các câu hỏi này, Cư Dân Việt ở Quận Cam là nhóm dân tộc thiểu số ít có khả năng thừa nhận vai trò của các rào cản lịch sử và cấu trúc. Ví dụ, trong khi 61% cư dân Quận Cam nói chung, họ đều nói rằng họ đồng ý rằng “Nhiều thế hệ nô lệ và phân biệt đối xử đã tạo ra những điều kiện khiến người Mỹ da đen khó thăng tiến hơn”, chỉ 49% người Việt Nam được hỏi đồng ý. Trong khi đó, 60% người Việt Nam được hỏi đồng ý với ý kiến ​​rằng “Thực sự là do một số người chưa cố gắng đủ” và nếu người Mỹ da đen “chỉ cố gắng hơn nữa thì họ cũng có thể thành công như người da trắng” so với chỉ có 38 phần trăm tổng số cư dân Quận Cam nói chung.

Nhiều người Việt Nam trả lời khảo sát nhận thấy vai trò của sự phân biệt đối xử trong việc hạn chế cơ hội cho người nhập cư so với người Mỹ da đen. Tuy nhiên, thật thú vị, cũng như nhiều người Việt Nam được hỏi rằng họ có đồng ý rằng đối với người nhập cư, cũng như người Mỹ da đen, vấn đề một số người không “cố gắng đủ”, và sự bất bình đẳng sẽ xuất hiện “nếu người nhập cư ngày nay chỉ cố gắng nhiều hơn. ” Một số học giả người Mỹ gốc Việt đã khám phá các tiền thân về lịch sử và xã hội đối với loại hình tín ngưỡng này, từ nhiều góc độ khác nhau.16 Nhưng bất kể nguồn gốc của các bài tường thuật khẳng định rằng cơ hội là như nhau cho tất cả mọi người trong Hoa Kỳ dựa trên sự làm việc tận tụy, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng họ những sự nổi bật trong hiện tại trong cộng đồng người Việt Nam tại Quận Cam. Do đó, bất kỳ nỗ lực nào nhằm xây dựng tình đoàn kết hoặc liên minh giữa các nhóm mạnh mẽ hơn, hoặc tăng cường hỗ trợ cho các cải cách công bằng chủng tộc, đều cần phải cạnh tranh với chúng.

Vai Trò của Chính phủ

Trong nhiều năm, dự án Blueprint for Belonging đã điều tra quan điểm của người dân California về vai trò thích hợp của chính phủ, bao gồm các câu hỏi cơ bản về “chính phủ” có nghĩa là gì đối với họ và những giả định nào gắn liền với thuật ngữ này. Khi chúng tôi đưa những câu hỏi này đến các nhóm phỏng vấn với người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam, trước tiên, các câu trả lời của họ phần lớn nổi bật về những gì chưa được nói ra. Đặc biệt, nhiều hiệp hội phổ biến thúc đẩy sự hoài nghi về chính phủ trong các cộng đồng California khác không xuất hiện với những người Việt Nam tham gia trong cuộc nghiên cứu.

Đáng chú ý hơn, trong cuộc nói chuyện về "chính phủ" của các cử tri này không bị chi phối bởi những ý tưởng về chính trị quốc gia đảng phái. Ở những nơi khác, người dân California thường đánh đồng chính phủ ngay lập tức với các chính trị gia, và với “nền chính trị bẩn thỉu” của các tranh chấp giữa các đảng phái và giao dịch tư lợi.17 Ngược lại, người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam thường nhớ lại kinh nghiệm với các cơ quan chính phủ và các nhà cung cấp dịch vụ, bao gồm các chương trình dành cho người tị nạn, dịch vụ ngôn ngữ và Bưu điện Hoa Kỳ. Không phải tất cả những trải nghiệm này đều tích cực, và chúng ta sẽ thảo luận về những hoạt động của một số trong số những hoạt động trên ở phần sau trong văn bản này. Nhưng điều quan trọng đối với cách các cử tri này suy nghĩ về việc thực hiện các nghĩa vụ của công dân là những ý tưởng của họ về chính quyền dựa nhiều hơn vào kinh nghiệm với các cơ quan hành chính hơn là hình ảnh của các chính trị gia lanh lợi.18

Có lẽ vì họ nghĩ đến cấp địa phương đầu tiên nên những người Việt tham gia cũng sẵn sàng đưa ra các hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội liên quan đến ý tưởng của chính phủ. Mặc dù một lần nữa, kinh nghiệm về các dịch vụ đánh giá còn lẫn lộn, chúng tôi không nghe thấy câu chuyện phổ biến nào về việc California đánh thuế và chi tiêu quá mức. Trên thực tế, thuế chỉ được đề cập một cách hiếm hoi và chỉ thoáng qua.

Quan Tâm, Từ Bi Và Cải Thiện Cuộc Sống Của Con Người

Đặc biệt, điều mà những người tham gia nhóm phỏng vấn nhấn mạnh là niềm tin rằng vai trò của chính phủ và đặc biệt là của các quan chức được bầu cử, là nâng cao cuộc sống của các cử tri. Họ nói rằng chính phủ phải tích cực làm cho cuộc sống của mọi người thoải mái hơn và tạo ra cơ hội tốt hơn để thành công về mặt kinh tế và khả năng vận động ngày càng cao cho cộng đồng của họ. Chính phủ cũng nên cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho những người đang gặp khó khăn và đảm bảo rằng các nhu cầu cơ bản của người dân được đáp ứng. Để thể hiện tất cả những điều này, người dân Việt Nam thường coi sự quan tâm và lòng nhân ái là phẩm chất mong muốn ở các đại biểu dân cử, và thực sự trong chính phủ nói chung.

Những quan điểm này rất đáng chú ý vì chúng khác biệt với những quan điểm mà các đảng viên đảng Cộng Hòa thường gán cho người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam.19 Cộng đồng Việt Nam thường bị định kiến là đồng nhất với tư tưởng bảo thủ của chủ nghĩa cá nhân thô bạo, cắt giảm thuế và phản đối chi tiêu xã hội. Những người tham gia thường nói về sự quan tâm, lòng trắc ẩn và sự phục vụ vì những động lực phù hợp của hành động chính sách hoàn toàn trái ngược với mô tả này. Và sự ưa thích này của những người Mỹ gốc Việt đối với một chính phủ tích cực trong việc cải thiện điều kiện vật chất của người dân không phải là duy nhất đối với những người tham gia nhóm phỏng vấn của chúng tôi.

Trên thực tế, tầm nhìn này về vai trò của chính phủ được phản ánh rõ ràng và liên tục xuất hiện trong các kết quả từ cuộc khảo sát của Quận Cam năm 2020 của chúng tôi. Những kết quả này bao gồm câu trả lời của 200 người Mỹ gốc Việt đối với một loạt câu hỏi về hành động của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế. Một số người được hỏi họ đồng ý hay không đồng ý rằng chính phủ phải chịu trách nhiệm (1) đảm bảo rằng mọi người đều có những thu nhập cơ bản, và (2) giảm sự chênh lệch thu nhập giữa những người có thu nhập cao và thấp.20 Ở cả hai điều này, hầu hết những người Mỹ gốc Việt đã đồng ý rằng chính phủ phải chịu trách nhiệm về những can thiệp được đề cập hơn bất kỳ nhóm sắc tộc-chủng tộc nào khác ở Quận Cam (xem Hình 1). 85% người Việt Nam được hỏi đồng thuận gần như cho rằng chính phủ nên đảm bảo thu nhập cơ bản khi nền kinh tế không cung cấp một khoản thu nhập nào, với 68% đồng ý “mạnh mẽ”; và gần 2/3 cho rằng chính phủ phải có trách nhiệm cho việc giảm bất bình đẳng thu nhập.

Hinh 1

Những người trả lời khảo sát cũng được hỏi liệu “chính phủ có nên cung cấp ít dịch vụ hơn, ngay cả trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe và giáo dục, để giảm chi tiêu” hay “cung cấp nhiều dịch vụ hơn, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc tăng chi tiêu”. Ở đây, những người trả lời có thể trả lời trên thang điểm từ 1 đến 7, từ ít dịch vụ hơn đến nhiều dịch vụ hơn. Kết quả cho các nhóm sắc tộc-chủng tộc khác nhau ở Quận Cam được xem trong Hình 2. Ở đây, chúng ta thấy rằng người Mỹ gốc Việt ít có khả năng ủng hộ việc cắt giảm dịch vụ nhất và đưa ra hỗ trợ tổng thể mạnh mẽ để chính phủ cung cấp nhiều dịch vụ hơn.21

Điều gì có thể giải thích cho mô hình này, vốn có vẻ trái ngược với những mô tả chung về quan điểm và đảng phái của người Mỹ Gốc Việt? Thứ nhất, nhiều thành viên cộng đồng người Việt có kinh nghiệm cá nhân khi tiếp cận các dịch vụ của chính phủ. Khi phản ánh những điều này, những người tham gia nhóm phỏng vấn có xu hướng xem xét các chương trình xã hội của Hoa Kỳ là một sự hào phóng, nhưng cũng cần thiết và cần có hiệu quả — không quá mức hoặc không hiệu quả.22 Tiếp theo, và có thể có liên quan, những người tham gia này bác bỏ những thủ đoạn chống thuế phổ biến mà dịch vụ chính phủ đang bị lạm dụng rộng rãi. Trên thực tế, ý kiến ​​cho rằng mọi người thường khai thác hệ thống chỉ được nêu ra trong các nhóm cộng sự của chúng tôi một lần và để bị bác bỏ. Một cư dân Garden Grove 42 tuổi cho biết anh ta tin rằng trên thực tế, hầu hết những người nộp đơn xin chính phủ thực sự cần chúng, và những người khai thác chúng chỉ là “một tỷ lệ nhỏ” và “chỉ là những quả táo xấu”. Do đó, một trong những câu chuyện chính không mang lại lợi ích cho mạng lưới an sinh xã hội đơn giản là dường như không gây được tiếng vang đối với những người Mỹ gốc Việt không theo đảng phái.

Hinh 2

Tham Gia Một Cách Công Khai Và Làm Thay Đổi

Mặc dù mục tiêu của một chính phủ năng động, quan tâm và nhân ái là một mục tiêu đầy tham vọng, nhưng suy nghĩ của những người tham gia nhóm phỏng vấn về cách tiếp cận nó đã hẹp hơn. Đáng chú ý, hầu hết đều nói về mục tiêu này như một cái gì đó mà họ “hy vọng” hoặc mong muốn, nhưng không phải là một yêu cầu. Nói khái quát hơn, các thành viên cộng đồng người Việt không đảng phái này hầu như không bao giờ nói về việc thay đổi ngôn ngữ tranh chấp, đấu tranh, hoặc phản đối. Đây là một sự quan trọng cho thấy họ hiện đang lập khung cơ quan chính trị của mình như thế nào, cũng như cách họ hiểu các vấn đề với chính phủ mà họ muốn thấy thay đổi.

Đối với vấn đề phân biệt chủng tộc, khi những người tham gia nói về các vấn đề như vậy hoặc các vấn đề với chính phủ, họ chú ý hoàn toàn vào các cá nhân hơn các hệ thống hoặc cấu trúc (systems or structures). Một số người kể lại những câu chuyện cá nhân về việc phải đối mặt với những thách thức hoặc thất vọng khi tiếp cận các dịch vụ của chính phủ. Trong mỗi trường hợp, các cuộc thảo luận nhóm sau đó chú ý vào các hành động hoặc đặc điểm xấu được nhận thức của các nhân viên hoặc viên chức cơ quan, chứ không phải về các chính sách hoặc thủ tục. Khi luật và chính sách được đưa ra, những người tham gia của nhóm nhấn mạnh sự cần thiết phải tuân theo và tuân thủ, ngay cả khi họ không đồng ý. Một số người khẳng định trực tiếp rằng luật pháp không thể chống hoặc thực hiện “theo cách chúng ta muốn”. Có thể một số người đồng ý với quy tắc và pháp luật là một cách họ nói những gì xã hội mong muốn trong bối cảnh của nhóm. Nhưng ngay cả khi vậy, điều đó cũng không kém phần liên quan đến việc hiểu những gì hiện đang được cộng hưởng và chấp nhận được trong các cử tri này khi đề cập đến các khung và các loại hành động công dân để thay đổi.

Thay vì suy tính về hệ thống hoặc thay đổi chính sách, những người tham gia nhóm phỏng vấn bày tỏ mô hình chính phủ tốt phụ thuộc vào việc các quan chức công bằng và quan tâm lắng nghe và giải quyết các vấn đề của cử tri. Trường hợp điều đó không xảy ra, đó thường là các quan chức bị đổ lỗi. Đáng chú ý, kỳ vọng của các thành viên cộng đồng Việt Nam đối với kiểu quan hệ này đặc biệt cao khi đối với các quan chức cũng là người Việt Nam. Một số người bày tỏ rằng các quan chức Việt Nam - từ thị trưởng đến văn phòng DMV - cần đặc biệt đáp ứng các cư dân Việt Nam và cam kết đáp ứng các nhu cầu của họ. Trường hợp tiêu chuẩn cao hơn này không được đáp ứng, có thể khiến các thành viên Việt Nam hiểu rằng các quan chức Việt Nam thực sự đang phân biệt đối xử với người Việt Nam.

“Các nhà lãnh đạo trong chính phủ/chính quyền cần phải giúp đỡ người dân. Đặc biệt nếu họ là người Việt Nam, họ phải giúp đỡ người Việt Nam trước. Hệ thống hỗ trợ rất yếu! Ngay cả bây giờ, nhiều người không biết vaccination là gì, không biết cách ghi danh, không biết phải làm gì. Có những người không biết rằng việc nuôi chó mèo mà không có giấy phép là vi phạm pháp luật. Họ không biết nhiều thứ. Vì vậy, họ rất cần sự hỗ trợ từ chính phủ ”.


MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM, 55, Westminster

Con đường duy nhất mà những thành phần này chỉ ra cho họ và cộng đồng của họ để thực hiện thay đổi chính trị là việc bầu cử. Nhiều người tham gia nghiên cứu khẳng định rằng việc bỏ phiếu là quan trọng và tất cả công dân đều nên bỏ phiếu. Ngoài bối cảnh nhóm phỏng vấn, cuộc khảo sát năm 2020 của chúng tôi cũng cho thấy rằng cư dân Việt Nam nói chung ít có khả năng hơn những người khác ở Quận Cam của họ đồng ý với tuyên bố, “Hầu hết các cuộc bầu cử không thực sự quan trọng lắm. Mọi thứ vẫn như vậy đối với những người như tôi cho dù ai được bầu vào chức vụ. ”23 Một số mô tả việc bỏ phiếu là “nghĩa vụ” — trong một số trường hợp đối với đất nước, nhưng trong một số trường hợp khác đối với cộng đồng. Tuy nhiên, tầm nhìn của cơ quan chính trị được thể hiện ở đây còn hạn chế, liên quan đến một chu kỳ trong đó một người bỏ phiếu, hy vọng rằng người thắng phiếu trong cuộc bầu cử làm những gì đúng, và sau đó bỏ phiếu lại — mà không có các hành động khác ở giữa.

Cuối cùng, trong tất cả các cuộc thảo luận về sự tham gia chính trị, những cư dân Việt Nam không theo đảng phái cuối cùng có xu hướng nhấn mạnh sự tách rời khỏi “chính trị”. Ngay cả khi nói rằng họ luôn bỏ phiếu, những người tham gia đã hạ thấp ý kiến ​​chính trị của họ và nói rằng họ tránh các cuộc trò chuyện về các chủ đề chính trị trong cuộc sống cá nhân của họ. Nhiều người tin rằng nói về chính trị sẽ dẫn đến đánh nhau, tranh luận hoặc xúc phạm những người có quan điểm đối lập. Họ có xu hướng cho rằng quan điểm của hầu hết mọi người đều được thiết lập và tốt hơn là không nên đối đầu với những người khác về vị trí của họ hoặc cố gắng thuyết phục họ nghĩ khác. Họ cảm thấy điều quan trọng hơn là phải bảo vệ các mối quan hệ và, theo cách nói của một người phụ nữ, “duy trì một môi trường yên tĩnh”. Những bài bình luận này đã truyền đạt rõ ràng sự độc hại mà những nghiên cứu phi đảng phái này kết hợp với diễn ngôn chính trị ngày nay.

Tóm Tắt Các Hàm Ý

Người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam có nhiều kinh nghiệm, ý tưởng và bản sắc phong phú mà chúng ta không thể vẽ bằng nét cọ rộng. Như vậy, với bản tóm tắt này, chúng tôi không có ý định nắm bắt sơ lược về cộng đồng Việt Nam như một tổng thể đơn nhất hay đồng nhất. Đặc biệt, những người trẻ dưới 40 tuổi và các thành viên cộng đồng có tư tưởng đảng phái mạnh mẽ không được xem xét ở đây, và cách nhìn của họ có thể sẽ khác nhau theo nhiều cách/khuynh hướng. Nghiên cứu bổ sung về các nhóm này — và các nhóm phụ của nghiên cứu — sẽ là một bổ sung có giá trị cho công việc hiện tại.

Bản tóm tắt này đã chú ý vào phạm vi hẹp hơn để đạt được một số chiều sâu. Nghiên cứu đã xem xét một thành phần cử tri cụ thể của cư dân Việt Nam tại Quận Cam đại diện trong các nhóm phỏng vấn của chúng tôi, cụ thể là những người nói tiếng Việt ở độ tuổi 40-70 với tư tưởng đảng phái yếu hoặc không có đảng phái. Đối với các cử tri này, chúng tôi có thể đưa ra một loạt bài học nổi bật từ những nghiên cứu của chúng tôi có ý nghĩa thiết thực đối với các tổ chức cộng đồng và công dân cam kết thúc đẩy công bằng chủng tộc và kinh tế, tham gia dân chủ và thuộc về cộng đồng. Những tác động này dựa trên dữ liệu thu thập được giữa các nhóm phỏng vấn và được chứng minh thêm bằng các kết quả khảo sát về cộng đồng Việt Nam trên phạm vi rộng hơn.

  • Đối với cộng đồng Việt Nam. Ý tưởng về “cộng đồng Việt Nam” đã gây được tiếng vang lớn và là nguồn gốc mạnh mẽ về bản sắc và mục đích cho các cử tri này. Các hành động hoặc hoạt động có khả năng thu hút sự tham gia nhiều hơn khi được giải thích là để giúp cho cộng đồng này, như một trách nhiệm đối với cộng đồng và vì lợi ích của tương lai của cộng đồng.
  • Sự thống nhất như một nguyên tắc neo. Mặc dù nhóm này nhận ra rằng có những khác biệt đáng kể về mặt xã hội trong cộng đồng, nhưng họ đánh giá cao và mong muốn hướng tới một cộng đồng Việt Nam thống nhất và bình đẳng, trong đó các cá nhân luôn hướng tới lợi ích của tập thể. Những lời nói hoặc hành động được coi là hỗ trợ chia rẽ hoặc bất hòa được coi là phản tác dụng và có hại
  • Ngôn ngữ quan trọng trong hành trình tổ chức các hành động công dân. Do không tin tưởng vào "chính trị" và ác cảm với xung đột chính trị, nhóm này dường như không thể tham gia các chiến dịch được trình bày bằng ngôn ngữ đấu tranh hoặc chắc chắn là "chiến đấu". Hơn nữa, những nỗ lực được coi là đảng phái chính trị - chẳng hạn, ngược lại, để được thúc đẩy bởi các giá trị hoặc lợi ích tốt nhất của cộng đồng - có thể sẽ thất bại.
  • Thỏa thuận về vai trò tích cực của chính phủ trong nền kinh tế. Ý thức chung hiện có đối với các cử tri này phù hợp với các mục tiêu sử dụng chính quyền để giảm bất bình đẳng kinh tế và đảm bảo đáp ứng các nhu cầu cơ bản về kinh tế, nhà ở và chăm sóc sức khỏe của mọi người. Ngôn ngữ mà điều này được thể hiện dễ dàng nhất là sự quan tâm và lòng trắc ẩn, và những câu chuyện để hỗ trợ chính quyền nhận ra những phẩm chất này sẽ rất hữu ích khi nhấn mạnh sự cần thiết phải thể chế hóa chúng (ngoài các quan chức cụ thể).
  • Mở rộng quan niệm về sự tham gia của công dân. Các cử tri này khẳng định rộng rãi bỏ phiếu là một hoạt động thiết yếu, nhưng các ý tưởng về sự tham gia hầu như chỉ dừng lại ở đó. Theo lời của một người phụ nữ 57 tuổi ở Santa Ana, suy nghĩ nói rằng “Khi có nhiều người trong chúng ta bỏ phiếu, chỉ khi đó cộng đồng của chúng ta mới có thể phát triển mạnh mẽ hơn,” có thể mở rộng sang các hoạt động dân sự khác.
  • Quan tâm đến sự tương tác giữa các nhóm có ý nghĩa. Các cử tri này có ít cuộc đối thoại trực tiếp với các thành viên cộng đồng có nguồn gốc nhập cư khác hoặc “dân tộc thiểu số” (theo cách nói của những người tham gia). Một số bày tỏ quan tâm đến các cơ hội tương tác, nhưng do một số rào cản, những cơ hội này cần được các nhóm tổ chức cộng đồng lập kế hoạch và điều hành.
  • Xây dựng liên minh/sự phối hợp phải vượt qua những nghi ngờ về đảng phái. Việc tổ chức chiến dịch trên khắp các cộng đồng có nguồn gốc nhập cư rất phức tạp là do nhận thức về đảng phái. Nếu những điều này có thể được khắc phục và các chiến dịch được cố định rõ ràng trong các giá trị hoặc vấn đề không được coi là đảng phái, thì kết quả có thể rất mạnh mẽ. Đã có 65 phần trăm người Mỹ gốc Việt ở Quận Cam nói rằng người da trắng có “quá nhiều ảnh hưởng” trong chính trị của tiểu bang California — một cơ sở vững chắc để xây dựng các liên minh/sự phối hợp vì sự đại diện bình đẳng hơn.24
  • Công nhận một phần sự phân biệt chủng tộc của Hoa Kỳ. Mặc dù ngôn ngữ và phân tích về phân biệt chủng tộc mang tính cấu trúc hoặc hệ thống là không phổ biến ở các cử tri này, các thành viên nhận ra sự hiện diện của hành vi và bất công phân biệt chủng tộc. Thời điểm hiện tại có thể là thời điểm để tăng cường sự đoàn kết giữa các nhóm xung quanh những trải nghiệm về sự căm ghét. Nhưng việc đưa các cử tri này vào các chiến dịch cải cách công bằng chủng tộc sâu sắc hơn sẽ đòi hỏi một quá trình giáo dục được lập kế hoạch tốt để đáp ứng các cá nhân ở nơi họ đang ở, hiểu rằng họ có khả năng ít tiếp xúc với các phân tích sâu hơn về phân biệt chủng tộc.
  • Cơ sở vững chắc cho người Mỹ gốc Việt trẻ và lớn tuổi đoàn để xây dựng sự công bằng xã hội và sự gắn bó. Thành phần cử tri ở đây đã sẵn sàng cho sự chuyển đổi thế hệ trong vai trò lãnh đạo cộng đồng, và để mở rộng lòng tin và niềm tin của họ cho các thành viên cộng đồng Việt Nam trẻ tuổi. Mặc dù kinh nghiệm và phân tích xã hội của người Mỹ gốc Việt lớn tuổi có thể khác với nhiều khía cạnh so với kinh nghiệm của các thành viên cộng đồng trẻ tuổi, nhưng một số điểm ở trên cho thấy sự bổ sung đáng kể và tiềm năng gắn kết. Có một cơ hội đặc biệt khi các thành viên lớn tuổi có thiện chí và cam kết đoàn kết nhất trí để các nhà lãnh đạo trẻ có thể gặp gỡ họ ở nơi họ đang ở và nêu rõ tầm nhìn làm cầu nối cho bản sắc và điểm đầu vào riêng biệt của họ để hành động và tạo ra sự thay đổi.

Giới Thiệu Về Tác Giả

Joshua Clark là Nhà Phân Tích Về Việc Tham Gia Chính Trị tại Viện Othering & Belonging, đồng thời là nhà nghiên cứu cho chương trình Network for Transformative Change của Viện. Ông có bằng Tiến sĩ về Nhân chủng học văn hóa xã hội của Đại học California, Irvine.

Miriam Magaña López là Nhà phân tích chính sách và nghiên cứu viên tại Viện Othering & Belonging. Công việc của cô chủ yếu vào việc tìm hiểu cấu trúc kinh tế, chính trị và xã hội tác động như thế nào đến sức khỏe của người nhập cư. Miriam có bằng Cử nhân về Nhân chủng học của Đại Học Macalester và bằng MPH của Trường Y tế Công cộng của Đại học California, Berkeley.

Định Hướng Biên Tập

Olivia Araiza
Tracy La
Vincent P. Tran

Bố Cục / Thiết Kế

Christopher Abueg
Rachelle Galloway-Popotas

Trích Dẫn Được Đề Xuất

Clark, Joshua, and Miriam Magaña López. “Vietnamese Voices from Orange County, CA: Narratives of Community, Government, and Change.” Othering & Belonging Institute, University of California, Berkeley, CA, 2021.

Công Nhận

Nghiên cứu dựa trên văn bản này được thực hiện như một phần của dự án Blueprint for Belonging. Các tác giả cảm ơn Minh Nguyen Khai Pham vì vai trò quan trọng của anh ấy trong quá trình thu thập dữ liệu định tính và Vincent P. Tran và Hien Nguyen đã dịch dữ liệu gốc từ Tiếng Việt sang Tiếng Anh. Các tổ chức dự án tại OBI và VietRISE cũng cảm ơn Tổ chức California Endowment và Blue Shield of California Foundation vì sự hỗ trợ hào phóng của họ.

Liên Lạc

460 Stephens Hall
Berkeley, CA 94720-2330
ĐT 510-642-3326
belonging@berkeley.edu

Xuất Bản Tháng 2 Năm 2022.

Viện Othering & Belonging tập hợp các nhà nghiên cứu, các thành viên liên quan trong cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách để xác định và thách thức các rào cản đối với một xã hội toàn diện, công bằng và bền vững nhằm tạo ra sự thay đổi mang tính chuyển đổi.

Tổ Chức VietRISE thúc đẩy công bằng xã hội và xây dựng quyền lực với các cộng đồng người Việt Nam và nhập cư tại Quận Cam, xây dựng vai trò lãnh đạo và tạo ra sự thay đổi mang tính hệ thống thông qua tổ chức, thay đổi những tường thuật, trao quyền văn hóa và sự tham gia của công dân.

vietrise logo

 


1 Linda Trinh Võ, “Constructing a Vietnamese American Community: Economic and Political Transformation in Little Saigon, Orange County,” Amerasia Journal 34, no. 3 (2008): 85-109.

2 Yến Lê Espiritu, “Toward a Critical Refugee Study: The Vietnamese Refugee Subject in US Scholarship,” Journal of Vietnamese Studies 1, no. 1-2 (2006): 410-433. Quotes are from pp. 410 and 413.

3 Để biết thêm chi tiết về Blueprint for Belonging, tại Viện Othering and Belonging ở UC Berkeley, xin vào trang web: https://belonging.berkeley.edu/b4b.

4 Phil Macnaghten and Greg Myers, “Focus Groups,” in Clive Seale, Giampietro Gobo, Jaber F. Gubrium, and David Silverman, eds., Qualitative Research Practice, Sage Publications, 2004.

5 Janet Smithson, “Using and analysing focus groups: Limitations and possibilities,” International Journal of Social Research Methodology 3, no. 2 (2000): 103-119.

6 Sue Wilkinson, “Focus Groups in Feminist Research: Power, Interaction, and the Co-construction of Meaning,” Women’s Studies International Forum 21, no. 1 (1998): 111-125; Lia Litosseliti, Using Focus Groups in Research, Bloomsbury Publishing, 2003; and Macnaghten and Myers, “Focus groups.”

7 Bao gồm Viện Blueprint for Belonging và nhóm VietRISE hợp tác thiết lập một số phạm vi nghiên cứu, soạn thảo và cải tiến một số hướng dẫn hỗ trợ cho nhóm phỏng vấn và quyết định các tiêu chí tham gia.

8 Những người cho biết họ nói tiếng Việt hơn 50% hằng ngày đều đủ điều kiện tham gia.

9 Trong hầu hết mọi trường hợp, những người tham gia không là đảng viên Cộng hòa hoặc đảng Dân chủ. Trong một số trường hợp mà những người tham gia trong đảng, tất cả đều thể hiện tư tưởng đảng phái hoặc đảng phái yếu kém. Những người tham gia được tuyển chọn ban đầu từ danh sách cử tri đã ghi danh bầu cử, và lần thứ hai thông qua giới thiệu.

10 Nhận xét không lặp lại mà thay vào đó là những nhận xét ngoại lệ hoặc “một lần khác”, hoặc không được báo cáo hoặc được văn hóa theo ngữ cảnh đúng như vậy.

11 Người tham gia tiềm năng được chọn từ một nhóm bao gồm những công dân và không phải là  công dân, và được liên lạc qua email, thư bưu điện và điện thoại. Họ có thể hoàn thành khảo sát trực tuyến, qua điện thoại cố định hoặc điện thoại di động, bằng tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Việt. Tất cả những người trả lời được hỏi họ xác định chủng tộc hoặc sắc tộc nào và được phép chọn một hoặc nhiều hơn trong số sáu tùy chọn trả lời, tiếp theo là “khác”. Sau đó, những người xác định họ là người Mỹ gốc Á được yêu cầu nói những gì họ coi là “dân tộc chính hoặc tổ tiên gia đình của họ”.

12 Cuộc khảo sát khu vực thuộc về Kế hoạch chi tiết cho năm 2020 của Quận Cam đã thu thập dữ liệu về quan điểm của những người được hỏi về một loạt các chủ đề bao gồm động lực giữa các nhóm, vai trò thích hợp của chính phủ, các vấn đề kinh tế và chính sách khác, và cuộc khủng hoảng của đại dịch COVID-19. Có thể truy cập phần bổ sung dữ liệu với các kết quả bổ sung tại: https: //tinyurl.com /b4boc2020.

13 Một số người tham gia đặc biệt nhanh chóng thách thức hàm ý rằng có thể có những nhóm địa vị cao hơn hoặc thấp hơn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, hoặc người Mỹ gốc Việt đối xử bất công hoặc phân biệt đối xử với bất kỳ thành viên nào của họ.

14 Sự hiểu biết này đã dựa trên một trong những câu chuyện kể về sự tiến bộ/thăng tiến của cộng đồng Việt Nam nói trên: rằng kinh nghiệm của họ là một trong những sự chấp nhận dần dần thông qua việc ngày càng tăng sự quen thuộc của họ.

15 Điều này đề cập đến cụm từ "oán giận chủng tộc" (“racial resentment”), cùng với một phiên bản tương tự được sửa đổi một chút để đo lường sự phẫn nộ chống người nhập cư (chứ không phải chống người da đen). Tập hợp các câu hỏi khảo sát đã được tiêu chuẩn hóa đã được sử dụng để đánh giá các hình thức phản đối với chủng tộc da đen hiện đại tinh vi hơn trong gần bốn mươi năm. Để có một cuộc thảo luận rất ngắn gọn về vấn đề này và một số cách tiếp cận thay thế để đo lường một số thành kiến ​​về chủng tộc trong các cuộc khảo sát ý kiến, hãy xem Michael Tesler, Post-Racial or Most-Racial? Race and Politics in the Obama Era, The University of Chicago Press, 2016, pp. 19-24.

16 Một số ví dụ bao gồm Mimi Thi Nguyen, The Gift of Freedom: War, Debt, and Other Refugee Passages, Duke University Press, 2012; Tuan Hoang, “From reeducation camps to Little Saigons: Historicizing Vietnamese diasporic anticommunism,” Journal of Vietnamese Studies 11, no. 2 (2016): 43-95; and Y. Thien Nguyen, “When State Propaganda Becomes Social Knowledge: Legacies of the Southern Republic,” Unpublished Ph.D. disserta- tion, Northwestern University, 2021.

17 Ví dụ, xem Joshua Clark and Olivia Araiza, “Margins in Movement: Toward Belonging in the Inland Empire of Southern California,” Othering and Belonging Institute, University of California, Berkeley, October 2021, Part V.

18 Phù hợp với xu hướng này, nơi những người Mỹ gốc Việt không đảng phái đã đưa ra các quan chức được bầu chọn, trọng tâm của họ là gần nơi sống— họ nói về các giám sát viên quận và thị trưởng hơn là các viên chức Liên bang.

19 Đối với một ví dụ gần đây, hãy xem trích dẫn trong Brooke Staggs, Roxana Kopetman, and Ian Wheeler, “Why did Vietnamese voters in Orange County swing toward Trump in 2020?,” OC Register, March 7, 2021.

20 Mục này đọc đầy đủ: “Tôi sẽ đọc cho mọi người một loạt các tuyên bố. Vui lòng cho tôi biết nếu mọi người hoàn toàn đồng ý, đồng ý một phần, không đồng ý hoặc rất không đồng ý với từng: (a) Chính phủ có trách nhiệm giảm bớt sự khác biệt về thu nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp; (b) Khi nền kinh tế ngừng cung cấp cho người dân lao động, chính phủ phải có trách nhiệm đảm bảo rằng mọi người đều có thu nhập cơ bản. ”

21 Những cư dân Việt Nam cũng là nhóm ủng hộ các đề xuất chính sách xây dựng nhà ở với các dịch vụ hỗ trợ cho người vô gia cư. Xem “Poll: OC residents want more housing support for homeless,” Press Release, Othering and Belonging Institute, University of California, Berkeley, Oct. 7, 2020, https://belonging.berkeley.edu/poll-oc-residents-want-more-housing-support-homeless.

22 Theo như Giáo Sư Mimi Thi Nguyen thảo luận trong The Gift of Freedom, việc thực hiện lòng biết ơn là một trong những “món nợ” áp đặt cho những người tị nạn Việt Nam nhận được các dịch vụ hỗ trợ có lẽ hào phóng một cách bất thường (xem Linda Võ, “Constructing a Vietnamese American Community”). Nhưng trong khi những người tham gia nghiên cứu được cho là đã thực hiện câu chuyện về lòng biết ơn áp đặt, điều thú vị ở đây là họ ngoại suy từ đó là sự hỗ trợ rộng rãi cho các dịch vụ hào phóng của chính phủ nói chung. Có nghĩa là, họ không mô tả mình là những người tị nạn duy nhất là “xứng đáng” được những dịch vụ. Do đó, chúng ta thấy rằng ngay cả khi mọi người nội dung một câu chuyện chi phối hoặc thử nghiệm nó là "thực", họ cũng có thể diễn giải lại và sử dụng lại nó theo một điểm cuối khác với điểm mà có thể đã thúc đẩy nó ban đầu.

23 Chỉ 15% người Việt Nam được hỏi cho biết họ đồng ý với nhận định này, so với 23% trên toàn quận. Và trong cuộc khảo sát của chúng tôi về các quận lân cận như ở Riverside và San Bernardino, 30 phần trăm trong số hơn 1.500 người được hỏi đồng ý với tuyên bố này.

24 Người trả lời được hỏi về một số nhóm khác nhau xem họ có “quá nhiều”, “quá ít” hay “vừa đủ để có ảnh hưởng” trong nền chính trị của California. 65% người Việt Nam được hỏi cho rằng "quá nhiều" đối với người da trắng, thậm chí còn cao hơn một chút so với tỷ lệ của người Mỹ gốc Latinh (63%) và người Mỹ gốc Á không phải gốc Vietnam (62%) cũng nói như vậy.